Để chọn ra hiền tài, các kỳ thi thời phong kiến được xem là những “đấu trường” khốc liệt. Là sĩ tử, nếu không thông hiểu thiên kinh vạn quyển thì không thể ứng thí.
Các kỳ thi Nho học ở Việt Nam bắt đầu có từ năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông và chấm dứt vào năm 1919 đời vua Khải Định. Trong 845 năm, đã có nhiều khoa thi khác nhau, ở mỗi triều đại lại có những cách thức khác nhau.
Không chỉ học thuộc lòng
Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi, thí sinh sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội, mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương.
Con đường học hành của sĩ tử ngày xưa bắt đầu rất sớm. Theo một số nguồn sử liệu, khi 6 đến 7 tuổi, trẻ đã bắt đầu học về sách: Sơ học vấn tân, Tam tự kinh, Tứ tự kinh, Ngũ ngôn. Học trò tập làm văn, làm câu đối 2 chữ, 4 chữ, biết phân biệt vần trắc và bằng…
Khoảng 10 tuổi, học trò làm quen những sách kinh điển của Nho giáo, như: Tứ thư, Ngũ kinh, rồi Bắc sử (sử Trung Quốc), Nam sử (sử nước ta). Ngoài ra, trẻ còn phải đọc sách “Bách gia chư tử” của các triết gia Trung Quốc cổ đại. Rồi Đường thi, Tống thi, những áng văn tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam và Trung Quốc.
Tất cả những nội dung đó, học trò phải thuộc lòng. Tất nhiên để thi cử đỗ đạt, những kiến thức trên chưa đủ. Nó còn phụ thuộc nhiều vào việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào nội dung của từng bài thi. Đặc biệt, nhiều đề thi đòi hỏi thí sinh phải am hiểu tình hình kinh tế - văn hoá - chính trị - quân sự của xã hội đương thời.
Không chỉ học thuộc làu văn thơ, kinh sách, viết văn, làm thơ, vế đối. Học trò còn phải biết soạn thảo các loại văn bản của triều đình.
Thầy giáo trường làng được mệnh danh là thầy đồ, thường là những người học giỏi nhưng thi cử không đỗ đạt. Hoặc đỗ đạt cao, ra làm quan rồi nghỉ hưu về mở trường, hoặc có thể là người thi đỗ mà không ra làm quan…
Nhà nước không chi kinh phí cho các trường dạy trẻ mà chỉ mở trường huyện, phủ và tỉnh. Quan giáo dục ở huyện gọi là huấn đạo, ở phủ gọi là giáo thụ, còn danh hiệu đốc học gọi là quan của hàng tỉnh.
Dễ làm nhưng khó đỗ
Tranh vẽ cảnh trường thi xưa (Le Petit Journal, 28/7/1895).
Giáo dục khoa cử, thể lệ thi thời phong kiến ngày càng nền nếp, khuôn khổ. Tuy nhiên, việc quy định bao nhiêu năm tổ chức một kỳ thi lại không thống nhất, phụ thuộc vào từng triều đại.
Quy chế khoa cử thời phong kiến bao gồm 3 kỳ thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình). Trong đó, quan trọng nhất là 2 kỳ thi Hương và Hội.
Thi Hương diễn ra ở nhiều nơi, nhưng không phải tỉnh nào cũng được tổ chức thi Hương. Trường thi chia ra làm nhiều vùng, ba bốn trấn hoặc tỉnh cùng thi ở một nơi. Ví dụ, trường Nam là tập trung thí sinh ở các tỉnh xung quanh Nam Định, trường Hà các tỉnh lân cận Hà Nội.
Theo sách “Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ” của nhà Nguyễn, kỳ thi Hương có ba vòng (tam trường) hoặc bốn vòng (tứ trường). Vòng đầu thi kinh nghĩa, gồm các sách Tứ thư, Ngũ kinh của Nho giáo. Vòng hai thi chiếu biểu (tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ...). Vòng ba thi sáng tác thơ phú theo chủ đề. Vòng bốn thi văn sách để viết các bài tự luận.
Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ, chỉ cần thuộc lòng Tứ thư, Ngũ kinh và trình bày cho đúng ý. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài.
Dễ làm nhưng khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay.
Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải cá nhân, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, sĩ tử không những phải thông làu kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ.
Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực như thiên văn, địa lý, bói toán, y học... Đặc biệt là những câu hỏi về thực tế, đòi hỏi sĩ tử phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải có kiến thức của thiên kinh vạn quyển mới có thể vận dụng làm bài.
Những người đỗ trong các kỳ thi Hương chia ra làm 2 loại. Loại một (từ thời Lê về trước) có các danh hiệu Cống cử, Cống sinh, Cống sĩ, Hương tiến, Hương cống. Những ông cử này sẽ được dự kỳ thi Hội. Loại hai không được thi Hội gọi là Sinh đồ. Người đỗ đầu thi Hương được mệnh danh Giải nguyên – Hương nguyên.
Giờ thi và hình phạt khắc nghiệt
Trống điểm canh tư (chừng 1 giờ sáng) thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên. Đến khoảng canh năm tám khắc (khoảng 5 giờ sáng) thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân (3 - 5 giờ chiều) thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một (tức 19 giờ).
Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày.
Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi (giấy làm bài thi đóng thành quyển), phải giữ gìn sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu.
Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ thì xong để chuẩn bị làm bài thi.
Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” (dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...). Cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn.
Các quy định đó xem ra cũng không khác gì hiện nay, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì vô cùng khắc nghiệt. Trong bài thi lại có những quy định rất rắc rối, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị (không biết tránh chữ húy).
Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình. Đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua...
Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm.
Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài (nâng cao lên trong dòng chữ). Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.
Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét hay một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh trượt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ (xóa bỏ), di (sót), câu (móc), cải (sửa) quá 10 chữ.
Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.
Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường thi Hương thì được học vị tú tài. Những thí sinh vượt qua được cả bốn trường thì được học vị cử nhân, được ban cấp áo mũ, ban yến (đãi tiệc), rồi vinh quy bái tổ.
Tân tiến sĩ sẽ được ban nhiều đặc ân, được vinh quy bái tổ, khắc bia lưu danh và bổ nhiệm chức quan.
Cuộc đua tiến sĩ
Đỗ trong kỳ thi Đình đạt học vị chung là tiến sĩ. Trong đó, đỗ từ 8 - 10 điểm được xếp bậc Đệ nhất giáp: 10 điểm đỗ “Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh (Trạng nguyên). 9 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn). 8 điểm đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa).
Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi vào kinh đô dự kỳ thi Hội. Cách thức làm bài và trường quy thi Hội không khác mấy với thi Hương, nhưng phạm quy thì bị tội nặng hơn.
Thi Hội và thi Đình được mệnh danh là kỳ thi Đại Tỷ (Đại khoa). Thi Hội là kỳ thi quốc gia dành cho những người đã qua thi Hương, có bằng cử nhân và các Giám sinh đã mãn khóa Quốc Tử Giám.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hội cũng có 4 kỳ. Kỳ một thi kinh nghĩa, thư nghĩa; kỳ hai thi chiếu, chế, biểu; kỳ ba thi thơ phú và kỳ bốn thi văn sách. Thi Hội không có truyền lô (xướng danh) nhưng lễ yết bảng (công bố kết quả) rất long trọng. Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách. Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi Đình.
Thi Đình còn gọi là Điện thí, được tổ chức ngay tại sân điện, do vua ra đề và chấm thi. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó ai. Thi Đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.
Đây cũng là kỳ thi cuối cùng để xếp loại tiến sĩ đã đỗ ở kỳ thi Hội trước đó. Sau khi vua chấm bài, học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng, được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh muôn thuở.
TRẦN HOÀ
Nguồn: Giáo dục thủ đô online