Nước Việt ta cũng trải qua mấy ngàn năm Văn hiến. Cái sự học cũng sớm được quan tâm từ thuở lập Quốc. Nền giáo dục truyền thống vốn mang theo những giá trị đạo đức và tinh hoa của Dân tộc. Cùng “ôn cố tri tân” điểm lại các giá trị của giáo dục và chuyện học của người Việt ngày xưa.
Học trò luôn nghe theo mọi phép tắc chỉ bảo của người Thầy
Trong số những bậc hiền nho, họ hầu hết đều bước vào chốn quan trường đầy gập ghềnh. Chỉ có số ít trong đó là đảm nhận công việc dìu dắt thế hệ con cái thường dân, họ đều là những người tài giỏi, công danh đỗ đạt nhưng không có chí làm quan, chỉ muốn yên bình với cuộc sống ẩn dật chốn đồng quê.
Học trò phải nghe lời Thầy – ảnh thoixua
Hoặc là những bậc hàn nho, đây là những tương đối có tài nhưng không được may mắn khi năm lần bảy lượt thi cử lại chẳng được đề danh bảng vàng. Do đó, quyết định lấy nghề dạy học làm kế sinh nhai.
Nếu nhà thầy tương đối khang trang, thì thầy đồ sẽ tận dụng vừa làm nhà ở kiêm lớp dạy học. Còn nếu nhà cửa chật hẹp, thì hiển nhiên không thể dạy tại gia, mà thầy đồ sẽ quẩy một gánh sách Thánh hiền, đến xin nhờ nương náu ở một điền gian của phú hộ hay điền chủ nào đó, vừa dạy cho đám quý tử chủ nhà, vừa nhận thêm học trò ở làng trên xóm dưới.
Dù không tiện nghi khang trang nhưng người Thầy vẫn luôn ở vị trí trung tâm – ảnh thoixua
Dù điều kiện có thế nào đi chăng nữa, thì trong ánh nhìn của xã hội xưa, các thầy đồ luôn được xếp vào tầng lớp được kính nể với đầy trọng vọng, vậy nên mới có câu nói “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” (một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy) hay câu nói “không thầy đố mày làm nên”…..
Vị trí của người thầy được đặt cao hơn cả Cha mẹ, chỉ sau Vua
Theo tư liệu có được cho thấy ngày xưa, ở những vùng thôn quê, khi đứa trẻ tầm 6 – 7 tuổi, cha mẹ của chúng sẽ dẫn đến nhà thầy đồ với ước muốn xin thầy nhận cháu để thụ giáo được đôi ba chữ Thánh hiền. Nếu thầy đồ ẩn náu ở nhà điền chủ thì sẽ xin ý kiến chủ nhà và thông thường thì gia chủ sẽ ưng thuận ngay vì đó được xem là vinh dự cho gia đình.
Sau đó, lễ nhập môn sẽ được lựa chọn vào một ngày lành tháng tốt với mâm xôi, con gà, bầu rượu,…Và cũng chính trong cái ngày đại lễ đó, cha mẹ cậu bé sẽ được mời ở lại để nhâm nhi đôi chút cùng thầy đồ và gia chủ, sẵn tiện bàn về tướng mạo, tuổi tác hay tính tình của cậu học trò mới.
“Quân – Sư – Phụ”, Vị trí của người Thầy chỉ sau Vua – Ảnh thoixua
Phương châm “Tiên học lễ, hậu học văn” luôn được ứng dụng vào thực tiễn dù là xưa hay nay, vậy nên những tháng ngày đầu tiên nhập môn, những cô cậu học trò sẽ được dạy chủ yếu là cách khoanh tay, cúi đầu, chào hỏi, bẩm thưa,…theo đúng cốt cách của người học chữ. Đồng thời, họ cũng được dạy làm những công việc vặt vãnh như quét sân, quét lớp, bưng nước, mài mực cho thầy,…
Người nào làm không đúng với khuôn phép, trái với cung cách ăn ở và cư xử sẽ bị phạt nặng bằng những trận đòn roi mây thâm tím thịt. Chỉ khi đạt được lễ nghĩa, người học trò mới thật sự được dạy từng con chữ Thánh hiền. Trong các trường lớp thời xưa, chỗ ngồi của thầy đồ chỉ là một tấm chiếu hoa được trải ra, trên đó bày đầy đủ những tiện nghi thời thượng như tráp, bút, nghiên mực, ống điếu,…Còn người học trò chỉ được ngồi những tấm phản, được xếp san ѕáт nhau và đối diện với thầy.
Một buổi học ngày xưa ra sao ?
Thời gian học tập của những ngày xưa khác với thời buổi bây giờ nhiều lắm, mới sáng sớm tầm khoảng 6 giờ học trò đã lục đục rủ nhau đến nhà thầy trả bài, xong xuôi hết mới quay trở về ăn cơm sáng.
Sau đó lại quay trở lại học vào khoảng 9 giờ và học một mạch liền cho đến tận 3 giờ chiều mới được nghỉ về nhà. Số ngày học trong tuần là đủ cả, chẳng có chuyện nghỉ thứ năm, chủ nhật hay dịp lễ như bây giờ. Thời gian nghỉ hè trong năm cũng khác lắm!
Một buổi học lịch sử – Ảnh: thoixua
Trẻ con thời xưa không được thảnh thơi như bây giờ, chỉ trừ những cậu ấm cô chiêu con nhà phú hộ mới được bảo bọc, ngoài ra bọn nhỏ đều phải dành thời gian giúp đỡ cha mẹ trong những dịp cao điểm của công việc đồng áng thì kỳ nghỉ cũng được chia làm ba ngày: Tết Đoan ngọ (học trò sẽ được nghỉ khoảng một tháng để phụ giúp cha mẹ gặt lúa), Tết cơm mới (sẽ rơi vào khoảng tháng 10 và nghỉ khoảng một tháng cho vụ mùa gặt) và cuối cùng là Tết Nguyên đán (được nghỉ tận hai tháng).
Mối quan hệ Thầy giáo và học trò ngày xưa
Dạy học nhận tiền thì mới gọi là kế sinh nhai, nên việc đền đáp công sức thầy truyền dạy chữ viết được thể hiện dưới hai hình thức chủ yếu:
Tiền học phí: Mỗi năm nộp cho thầy làm một hay hai lần, tất cả khoảng 4 quan tiền. Riêng chủ nhà (nơi thầy ăn ở để dạy học) thì mỗi năm may cho thầy 2 quần, 2 áo dài, ba áo cộc.
Tiền tết thầy vào các kỳ nghỉ: Tùy hảo tâm của cha mẹ học trò để thầy có chút tiền mua sắm và về quê thăm nhà. Thuở ấy, các học trò lớn thường kính cẩn tiễn chân thầy về, có trường hợp đưa thầy bình yên về đến quê nhà rồi học trò mới xin phép quay trở lại.
Giáo dục làm gốc nên việc học phải rất nghiêm – Ảnh thoixua
Ngoài hai khoản tiền trên, còn một khoản phát sinh khác mà chính thầy hay thân nhân đều không mong nhận được. Đó gọi là “tiền đồng môn”, tiền được đóng trong trường hợp gia đình thầy có người mất hay cũng có thể là thầy mất. Căn cứ theo danh sách của tất cả học trò (tính từ những lớp học đầu tiên) và tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi người mà anh trưởng nội sẽ định ra khoản đóng. Đương nhiên, những học trò cũ, dù là quan to cỡ nào, Tổng đốc hay Tuần phủ cũng không thoát khỏi.
Danh sách sau khi lập sẽ được đưa cho anh trưởng ngoại thi hành. Thuở trước, việc trốn thuế Triều đình sẽ được dư luận châm chước nhưng hành vi trốn tiền đóng góp đồng môn thì hoàn toàn không thể tha thứ, đó được xem là một hành vi trái với luân lý – đồng nghĩa với vong ân bội nghĩa!
Phong Trương (www.vandieuhay.net)